Cần xây thêm nhiệt điện than để đảm bảo năng lượng?

Đến năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đạt 137.200 MW, trong đó nhiệt điện than vẫn chiếm khoảng 27%. Quy mô các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng...

Trong hàng loạt hội nghị, hội thảo gần đây liên quan đến phát triển năng lượng, đa số các ý kiến đều cho rằng nhiệt điện than là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường cần phải loại bỏ. Thế nhưng, nếu nhìn vào thực tế tình hình cung cấp điện hiện nay thì rõ ràng đây vẫn là nguồn năng lượng rất quan trọng, đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống điện quốc gia.

Quy hoạch Phát triển điện lực Quốc gia thời kỳ 2021 – 2030 tầm nhìn 2045 (Quy hoạch Điện VIII) nêu rõ, đến năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện của Việt Nam đạt 137.200 MW, trong đó nhiệt điện than vẫn chiếm khoảng 27%. Năm 2045, tổng công suất đặt của nguồn điện đạt 276.700 MW, trong đó nhiệt điện than chiếm 18%...

Chưa thể “đoạn tuyệt” nhiệt điện than, thậm chí cần xây thêm để đảm bảo năng lượng? - Ảnh 1

KHÓ KHĂN ĐỂ THU XẾP VỐN

Tại một số buổi tọa đàm trực tuyến về Quy hoạch điện VIII do các tổ chức xã hội tổ chức mới đây, nhiều chuyên gia cùng chung nhận định, tiếp tục phát triển các dự án điện than mới đến năm 2045 là trái với xu thế mới của khu vực và toàn cầu, rất khó khả khi vì nguồn tài chính quốc tế cho điện than ngày càng khó khăn hơn, nhiệt điện than ngày càng đắt đỏ hơn, các địa phương và người dân không ủng hộ.

Theo bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) kiêm Chủ tịch Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), việc tiếp tục phát triển điện than theo Quy hoạch điện VIII là rất khó khả thi để triển khai trong bối cảnh nguồn tài chính cho nhiệt điện than ngày càng thắt chặt.

"Nếu tiếp tục đưa những dự án này vào quy hoạch thì nguy cơ cao sẽ lặp lại sai lầm của Quy hoạch điện VII điều chỉnh và ảnh hưởng lớn tới việc đảm bảo cung cấp điện, bỏ lỡ cơ hội thu hút nguồn vốn xanh", bà Khanh lưu ý.

Đáng chú ý, trong kiến nghị gửi lên lãnh đạo Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành góp ý về Quy hoạch điện VIII mới đây, VSEA cũng nêu lên thực tế, mặc dù đã được hưởng cơ chế đặc thù theo Quyết định 2414/TTg về việc điều chỉnh danh mục, tiến độ một số dự án điện và quy định một số cơ chế, chính sách đặc thù để đầu tư các công trình điện cấp bách trong giai đoạn 2013 – 2020, song có tới 16/34 dự án điện than vẫn không đi vào vận hành đúng tiến độ và tiếp tục bị đẩy lùi thêm nhiều năm trong dự thảo Quy hoạch điện VIII.

Một trong những nguyên nhân dẫn tới chậm tiến độ của các dự án nhiệt điện than là việc tiếp cận nguồn tài chính ngày càng khó khăn. Hàn Quốc và Nhật Bản là hai trong số ba quốc gia vẫn còn đầu tư cho nhiệt điện than ở Việt Nam đã chính thức tuyên bố dừng cấp vốn cho các dự án điện than mới. Như vậy, áp lực cấp vốn sẽ đặt lên vai các ngân hàng trong nước.

Phân tích cụ thể hơn, ThS. Phạm Xuân Hòe – nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước), cho rằng những dự án nhiệt điện than dang dở chậm tiến độ chủ yếu là do không thu xếp được nguồn vốn. Việc các ngân hàng thương mại cho vay các dự án nhiệt điện than sẽ vượt xa mức cho vay 15% vốn tự có cho một khách hàng hoặc 25% cho một nhóm khách hàng.

"Điều này sẽ mang đến nhiều rủi ro cho các ngân hàng thương mại, đi ngược lại với xu thế phát triển ngân hàng xanh, ngân hàng bền vững trên toàn thế giới và có thể đe dọa sự phát triển của cả nền kinh tế Việt Nam. Tiếp tục phát triển nhiệt điện than là sự vay mượn của các thế hệ tương lai, chuyển rủi ro cho tương lai" ThS. Hòe nhấn mạnh.

VÌ SAO VẪN CẦN PHẢI PHÁT TRIỂN?

Mặc dù nhiệt điện than đang mang lại những lo ngại, song việc phát triển nguồn năng lượng này vẫn cần thiết trong bối cảnh nhu cầu điện cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước ngày càng tăng cao.

Để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện với chi phí không quá cao, hệ thống điện quốc gia vẫn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện than. Bởi nếu chọn năng lượng tái tạo sẽ có nhiều rủi ro, vì đây là nguồn năng lượng thiếu ổn định do phụ thuộc vào thời tiết, còn phát triển nhiệt điện khí hóa lỏng thì chi phí sẽ khá lớn và giá điện theo đó sẽ tăng cao hơn nhiều.

Chính vì thế, trong Quy hoạch điện VIII vẫn dành một phần công suất nhất định cho nhiệt điện than. Cụ thể, đến năm 2030 nhiệt điện than vẫn chiếm 27% trong tổng công suất lắp đặt nguồn điện; đến năm 2035 sẽ giảm xuống 23% và tiếp tục giảm xuống 21% và 18% trong vào năm 2040 và 2045.

Như vậy, trong giai đoạn đến năm 2030 và các năm sau, nguồn nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nguồn điện, đóng vai trò quan trọng trong đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế – xã hội.

Theo giải trình của Viện Năng lượng Việt Nam - đơn vị xây dựng Quy hoạch điện VIII, quy mô các nhà máy nhiệt điện than đưa vào giai đoạn 2021-2035 đều là những dự án chắc chắn xây dựng. Đây là những dự án đã thực hiện, công tác xúc tiến đầu tư tốt, không thể loại bỏ.

Ví dụ như nhà máy nhiệt điện Nam Định I, Thái Bình II, Vũng Áng II, Vân Phong I, Duyên Hải II, Vĩnh Tân III.... Sau năm 2035, hệ thống vẫn cần tiếp tục phát triển một phần nhỏ nhiệt điện than để đảm bảo tiêu chí an ninh năng lượng, giá điện không tăng quá cao.

Trong bối cảnh việc phát triển ngành điện vừa phải đáp ứng nhu cầu điện, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, vừa phải giảm thiểu ô nhiễm môi trường, Quy hoạch điện VIII cũng yêu cầu rất rõ, các nhà máy nhiệt điện than trong giai đoạn 2021-2025 chỉ xây dựng công nghệ nhiệt điện than siêu tới hạn trở lên.

Giai đoạn từ 2025-2035, chỉ xây dựng nhiệt điện than trên “siêu tới hạn” trở lên và sau năm 2035 chỉ xây dựng nhiệt điện than trên “siêu tới hạn” cải tiến.

Hơn nữa, để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện với chi phí không quá cao, hệ thống điện quốc gia vẫn cần phải xây dựng các nhà máy nhiệt điện than. Bởi nếu chọn năng lượng tái tạo sẽ có nhiều rủi ro, vì đây là nguồn năng lượng thiếu ổn định do phụ thuộc vào thời tiết, còn phát triển nhiệt điện khí hóa lỏng thì chi phí sẽ khá lớn và giá điện theo đó sẽ tăng cao hơn nhiều.

GIẢI BÀI TOÁN NGUỒN THAN NHẬP KHẨU

Vấn đề đặt ra đối với các dự án nhiệt điện than trong Quy hoạch điện VIII là yêu cầu các nhà máy sử dụng than nhập khẩu có nhiệt trị cao để giảm lượng sử dụng và mức độ tác động xấu đến môi trường. Trong quy hoạch này, sẽ có 14.590 MW công suất nhiệt điện than chắc chắn được xây dựng.

Ngoài ra, quy hoạch cũng thực hiện đánh giá thêm các vị trí tiềm năng có thể xây dựng tại các vùng miền. Kết quả đánh giá sơ bộ cho thấy, tổng công suất nhiệt điện than nhập khẩu có thể xây dựng thêm trên toàn quốc là hơn 75.000 MW (gồm cả các dự án đã có trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh).

Tuy nhiên, theo đánh giá của Hiệp hội Năng lượng Việt Nam, việc nhập khẩu than, nhất là cho sản xuất điện có một số khó khăn, thách thức.

Chưa thể “đoạn tuyệt” nhiệt điện than, thậm chí cần xây thêm để đảm bảo năng lượng? - Ảnh 2

Cụ thể Việt Nam mới tham gia thị trường nhập khẩu than nhiệt, trong khi thị trường này đã được các tập đoàn tài chính - thương mại lớn trên thế giới sắp đặt “trật tự” và chi phối từ lâu; có sự cạnh tranh gay gắt của các nước, nhất là các nước trong khu vực.

Trong khi đó, cơ sở hạ tầng, hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than còn yếu, năng lực vận chuyển đường thủy nội địa từ cảng biển về các nhà máy nhiệt điện than quá mỏng.

Mặt khác, cơ chế chính sách và tổ chức nhập khẩu than cho các nhà máy nhiệt điện còn nhiều bất cập, hình thức nhập khẩu than còn chưa đa dạng, chủ yếu mua theo chuyến, theo lô chưa có các hợp đồng nhập khẩu than dài hạn, chưa đầu tư khai thác than ở nước ngoài.

Để giải quyết bài toán này, Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề xuất, trước mắt và trung hạn, nguồn than nhập khẩu là từ thị trường than Indonesia, Australia và Nam Phi. Trong dài hạn, ngoài thị trường Australia cần tập trung mở rộng sang thị trường Nga và một số thị trường tiềm năng khác như Mông Cổ, Triều Tiên, Hoa Kỳ, Colombia...

Đặc biệt, để có nguồn than ổn định phải đầu tư mua mỏ ở nước ngoài. Các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn độ, Đài Loan... đã đầu tư mua mỏ ở các nước khu vực châu Á – Thái Bình dương từ hàng chục năm nay.

Đây là dạng đầu tư mạo hiểm và nhiều rủi ro cần có chiến lược bài bản. Chính phủ phải có sự hỗ trợ thích đáng bằng các hình thức thích hợp từ cơ chế chính sách, hỗ trợ đầu tư, hợp tác quốc tế, đường lối ngoại giao năng lượng...

Về cơ chế, chính sách nhập khẩu và đầu tư khai thác than ở nước ngoài, Nhà nước cần xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách, giải pháp đồng bộ nhập khẩu than và đầu tư khai thác than ở nước ngoài.

Hỗ trợ xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, hệ thống logistics phục vụ nhập khẩu than. Cho phép nghiên cứu xây dựng các trung tâm quản lý than cho mỗi cụm các nhà máy nhiệt điện than (3 - 5 nhà máy) với mục đích quản lý giao nhận, phối trộn và điều hành chuỗi cung ứng tập trung cho các nhà máy nhiệt điện than trong cụm.

Về tổ chức nhập khẩu than, hiện nay khối lượng than nhập khẩu chủ yếu cho nhiệt điện với các đơn vị nhập khẩu chính là Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN), Tập đoàn Điện lực Quốc gia Việt Nam (EVN), Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) và các công ty tư nhân, hoặc một số đơn vị nước ngoài đầu tư nhà máy điện.

Vì vậy, thời gian tới vẫn phải giao nhiệm vụ cho các đơn vị này thực hiện nhập khẩu than, nhất là cho điện.

Tuy vậy, để tránh tình trạng tranh mua, tranh bán, đẩy giá than tăng cao, gây rối loạn thị trường cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với nhau và với các hộ sử dụng than theo chiến lược chung dưới sự chỉ đạo, giám sát kịp thời của Chính phủ.

Có thể thành lập Hiệp hội nhập khẩu than để hợp tác, hỗ trợ nhau cùng nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin, thống nhất hành động và đàm phán theo chủ trương, định hướng chung với người bán.

Đặc biệt trong xây dựng, vận hành hệ thống logistics, vận chuyển than nhằm đảm bảo có nguồn cung ổn định dài hạn, chất lượng phù hợp và giá cả hợp lý.

(Nguồn: VnEconomy)